Tiểu sử Chủ tịch Hồ Chí Minh - Biography of President Ho Chi Minh

Thứ hai, 19/9/2022, 10:14
Lượt đọc: 2199

President Ho Chi Minh (his childhood name was Nguyen Sinh Cung, his school name was Nguyen Tat Thanh, and in many years of revolutionary activities he took the name Nguyen Ai Quoc), was born on May 19, 1890, in Kim Lien village, Nam Lien commune (now Kim Lien commune), Nam Dan district, Nghe An province; died on September 2, 1969, in Hanoi.

Ảnh đại diện
Tiểu sử Chủ tịch Hồ Chí Minh

 Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 02/9/1969)

Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, lớn lên ở một địa phương có truyền thống anh dũng chống giặc ngoại xâm. Sống trong hoàn cảnh đất nước chìm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, thời niên thiếu và thanh niên của mình, Hồ Chí Minh đã chứng kiến nỗi khổ cực của đồng bào và những phong trào đấu tranh chống thực dân, Hồ Chí Minh sớm có chí đuổi thực dân, giành độc lập cho đất nước, đem lại tự do, hạnh phúc cho đồng bào.

Với ý chí và quyết tâm đó, tháng 6/1911, Hồ Chí Minh đã rời Tổ quốc đi sang phương Tây để tìm con đường giải phóng dân tộc.

Ngày 03/6/1911, Nguyễn Tất Thành nhận thẻ nhân viên lên con tàu Amiran Latusơ Tơrêvin với cái tên là Văn Ba. Hai ngày sau, 05/6/1911 con tàu rời cảng Nhà Rồng đến Pháp.

Từ năm 1912 - 1917, dưới cái tên Nguyễn Tất Thành, Hồ Chí Minh đến nhiều nước ở châu Á, châu Âu, châu Mỹ, châu Phi, sống hoà mình với nhân dân lao động. Qua thực tiễn, Hồ Chí Minh cảm thông sâu sắc cuộc sống khổ cực của nhân dân lao động và các dân tộc thuộc địa cũng như nguyện vọng thiêng liêng của họ. Hồ Chí Minh sớm nhận thức được cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam là một bộ phận trong cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới và tích cực hoạt động nhằm đoàn kết nhân dân các dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do.

Cuối năm 1917, Hồ Chí Minh từ Anh trở lại Pháp, hoạt động trong phong trào Việt kiều và phong trào công nhân Pháp.

Năm 1919, lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Hồ Chí Minh đã gửi tới Hội nghị Vécxây (Versailles) bản yêu sách đòi quyền tự do cho nhân dân Việt Nam và cũng là quyền tự do cho nhân dân các nước thuộc địa.

Dưới ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp và bỏ phiếu tán thành Đảng gia nhập Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản), trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Từ một người yêu nước trở thành một người cộng sản, Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.

Năm 1921, cùng với một số người yêu nước của các thuộc địa Pháp, Nguyễn Ái  Quốc tham gia sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa. Tháng 4/1922, Hội xuất bản báo “Người cùng khổ” (Le Paria) nhằm đoàn kết, tổ chức và hướng dẫn phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Nhiều bài báo của Nguyễn Ái Quốc đã được đưa vào tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”, xuất bản tại Paris năm 1925. Đây là một công trình nghiên cứu về bản chất của chủ nghĩa thực dân, góp phần thức tỉnh và cổ vũ nhân dân các nước thuộc địa đứng lên tự giải phóng.

Tháng 6/1923, Nguyễn Ái Quốc từ Pháp sang Liên Xô, làm việc tại Quốc tế Cộng sản. Tháng 10/1923, tại Hội nghị Quốc tế Nông dân lần thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc được bầu vào Hội đồng Quốc tế Nông dân và là đại biểu duy nhất của nông dân thuộc địa được cử vào Đoàn Chủ tịch của Hội đồng. Tiếp đó tham dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V, Đại hội Quốc tế Thanh niên lần thứ IV, Đại hội Quốc tế Công hội đỏ. Tại các đại hội, Nguyễn Ái Quốc kiên trì bảo vệ và phát triển sáng tạo tư tưởng của V.I. Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, hướng sự quan tâm của Quốc tế Cộng sản tới phong trào giải phóng dân tộc.

Tháng 11/1924, với tư cách là Uỷ viên Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản và Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc). Tại Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc làm việc trong đoàn cố vấn Bôrôđin của Chính phủ Liên Xô bên cạnh Chính phủ Tôn Dật Tiên.

Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, trực tiếp mở lớp huấn luyện đào tạo cán bộ cách mạng, ra tuần báo “Thanh niên”, tờ báo cách mạng đầu tiên của Việt Nam nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam, chuẩn bị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại các lớp huấn luyện được tập hợp in thành sách “Đường Kách mệnh” -  một văn kiện lý luận quan trọng đặt cơ sở tư tưởng cho đường lối cách mạng Việt Nam.

Tháng 5/1927, Nguyễn Ái Quốc rời Quảng Châu đi Mátxcơva (Liên Xô), sau đó đi Béclin (Đức), đi Brúcxen (Bỉ), tham dự phiên họp mở rộng của Đại hội đồng Liên đoàn chống chiến tranh đế quốc, sau đó đi Ý và từ đây về châu Á.

Từ tháng 7/1928 đến tháng 11/1929, Nguyễn Ái Quốc hoạt động trong phong trào Việt kiều yêu nước ở Xiêm (Thái Lan), tiếp tục chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tháng 2/1930, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị thành lập Đảng họp tại Cửu Long, thuộc Hồng Kông (Trung Quốc). Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam.

Tháng 6/1931, Nguyễn Ái Quốc bị chính quyền Anh bắt giam tại Hồng Kông. Đầu năm 1933, Nguyễn Ái Quốc được trả tự do.

Từ năm 1934 đến năm 1938, Nguyễn Ái Quốc nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc thuộc địa tại Mátxcơva (Liên Xô). Kiên trì con đường đã xác định cho cách mạng Việt Nam, Người tiếp tục theo dõi, chỉ đạo phong trào cách mạng trong nước.

Tháng 10/1938, Người rời Liên Xô sang Trung Quốc, bắt liên lạc với tổ chức Đảng chuẩn bị về nước.

Ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc về nước sau hơn 30 năm xa Tổ quốc.

Tháng 5/1941, Nguyễn Ái Quốc triệu tập Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương Đảng, quyết định đường lối cứu nước trong thời kỳ mới, thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh), tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang giải phóng, xây dựng căn cứ địa cách mạng.

Tháng 8/1942, lấy tên là Hồ Chí Minh, Người đại diện cho Mặt trận Việt Minh và Phân hội Việt Nam thuộc Hiệp hội Quốc tế chống xâm lược sang Trung Quốc tìm sự liên minh quốc tế, cùng phối hợp hành động chống phát xít trên chiến trường Thái Bình Dương. Người bị chính quyền địa phương của Tưởng Giới Thạch bắt giam trong các nhà lao của tỉnh Quảng Tây. Trong thời gian một năm 14 ngày bị tù, Người đã viết tập thơ “Nhật ký trong tù” với 133 bài thơ chữ Hán. Tháng 9/1943, Hồ Chí Minh được trả tự do.

Tháng 9/1944, Hồ Chí Minh trở về căn cứ Cao Bằng. Tháng 12/1944, Hồ Chí Minh chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Tháng 5/1945, Hồ Chí Minh rời Cao Bằng về Tân Trào (Tuyên Quang). Tại đây theo đề nghị của Hồ Chí Minh, Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội Quốc dân đã họp quyết định Tổng khởi nghĩa. Đại hội Quốc dân đã bầu ra Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời) do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.

Tháng 8/1945, Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Hồ Chí Minh đọc “Tuyên ngôn độc lập”, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và ra mắt Chính phủ lâm thời do Người làm Chủ tịch kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao; tổ chức Tổng tuyển cử tự do trong cả nước, bầu Quốc hội và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam.

Ngày 01/01/1946, Chính phủ liên hiệp lâm thời được thành lập do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.

Tháng 01/1946, Quốc hội khóa I đã bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Ngày 02/3/1946, Chính phủ liên hiệp kháng chiến được thành lập do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.

Ngày 3/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh được Quốc hội giao nhiệm vụ thành lập Chính phủ mới do Người làm Chủ tịch nước kiêm Thủ tướng Chính phủ (từ 11/1946 đến 9/1955) và kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao (từ 11/1946 đến 1947).

Cùng với Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Việt Nam phá tan âm mưu của đế quốc, giữ vững và củng cố chính quyền cách mạng.

Ngày 19/12/1946, người kêu gọi cả nước kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc, bảo vệ và phát triển những thành quả của Cách mạng Tháng Tám.

Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (1951), Người được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược đã giành được thắng lợi to lớn, kết thúc bằng chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ (7/5/1954).

Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng (1955) Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.

Tháng 10/1956, tại Hội nghị Trung ương mở rộng lần thứ X (khóa II), Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Đảng, kiêm làm Tổng Bí thư của Đảng.

Tại Đại hội lần thứ III của Đảng (1960) đã nhất trí bầu lại Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam.

Quốc hội khóa II, khóa III đã bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Năm 1964, đế quốc Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân đánh phá miền Bắc Việt Nam. Người động viên toàn thể nhân dân Việt Nam vượt mọi khó khăn gian khổ, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Người khẳng định: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quí hơn độc lập, tự do! Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh mất ngày 02/9/1969, tại Hà Nội.

Trước khi qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho nhân dân Việt Nam bản Di chúc lịch sử, căn dặn những việc Đảng và nhân dân Việt Nam phải làm để xây dựng đất nước sau chiến tranh. Người viết: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.

Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân Việt Nam đã đoàn kết một lòng đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại bằng máy bay B52 của đế quốc Mỹ, buộc Chính phủ Mỹ phải ký Hiệp định Paris ngày 27/1/1973, chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân đội Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam.

Mùa xuân năm 1975, với Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân Việt Nam đã hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, thực hiện mong ước thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, đề ra đường lối đúng đắn đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Người sáng lập ra Đảng Mácxít - Lêninnít ở Việt Nam, sáng lập ra Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, sáng lập ra các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam và sáng lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, góp phần tăng cường đoàn kết quốc tế. Người là tấm gương sáng của tinh thần tập thể, ý thức tổ chức và đạo đức cách mạng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, lãnh tụ kính yêu của giai cấp công nhân và của cả dân tộc Việt Nam, một chiến sĩ xuất sắc, một nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc

Từ ngày 20/10 đến ngày 20/11/1987, trong khóa họp lần thứ 24 của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã thông qua Nghị quyết số 24C/18.6.5, lấy năm 1990 nhân dịp Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, để tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là "Anh hùng giải phóng dân tộc và Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam", góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới.

Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập với thế giới, tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam và dân tộc Việt Nam, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

Ho Chi Minh was born into a patriotic Confucian family and grew up in a locality with a heroic tradition of fighting against foreign invaders. Living in a situation where the country was under French colonial rule, in his childhood and youth, Ho Chi Minh witnessed the sufferings of his compatriots and anti-colonial struggles, Ho Chi Minh soon had the will to expel the colonialists, gain independence for the country, and bring freedom and happiness to the compatriots.

With that will and determination, in June 1911, Ho Chi Minh left the country to go to the West to find a way to liberate the nation.

On June 3, 1911, Nguyen Tat Thanh received an employee card to board the ship Amiran Latus Trêvin with the name Van Ba. Two days later, on June 5, 1911, the ship left Nha Rong port for France.

From 1912 to 1917, under the name of Nguyen Tat Thanh, Ho Chi Minh traveled to many countries in Asia, Europe, America and Africa, living in harmony with the working people. Through practice, Ho Chi Minh deeply sympathized with the miserable life of the working people and the colonial peoples as well as their spiritual aspirations. Ho Chi Minh soon realized that the struggle for national liberation of the Vietnamese people was a part of the common struggle of the world's people and actively worked to unite people of all nations in the struggle. gain independence and freedom.

At the end of 1917, Ho Chi Minh returned from England to France, active in the overseas Vietnamese movement and the French workers' movement.

In 1919, taking the name Nguyen Ai Quoc, on behalf of Vietnamese patriots in France, Ho Chi Minh sent to the Versailles Conference a claim demanding freedom for the Vietnamese people and also the right to freedom. for the peoples of the colonial countries.

Under the influence of the Russian October Revolution of 1917 and Lenin's Thesis on the National and Colonial Issues, in December 1920, Nguyen Ai Quoc attended the 18th Congress of the French Socialist Party and voted in favor of the Party. joined the III International (Comintern), becoming one of the founders of the French Communist Party. From a patriot to a communist, Ho Chi Minh affirmed: "In order to save the country and liberate the nation, there is no other way than the proletarian revolution."

In 1921, along with a number of patriots of the French colonies, Nguyen Ai Quoc participated in the founding of the Union of Colonial Peoples. In April 1922, the Association published the newspaper "Le Paria" in order to unite, organize and guide the national liberation struggle movement in colonial countries. Many articles by Nguyen Ai Quoc have been included in the work "Judgment of French Colonialism", published in Paris in 1925. This is a research work on the nature of colonialism, contributing to awakening and encouraged the peoples of the colonies to stand up for self-liberation.

In June 1923, Nguyen Ai Quoc moved from France to the Soviet Union to work at the Communist International. In October 1923, at the first International Conference of Farmers, Nguyen Ai Quoc was elected to the International Council of Peasants and was the only delegate of colonial farmers to be appointed to the Presidium of the Council. Then attended the 5th Communist International Congress, the 4th International Youth Congress, and the Red Union International Congress. At the congress, Nguyen Ai Quoc persistently defended and developed the ideas of V.I. Lenin on national and colonial issues, directed the attention of the Communist International to the national liberation movement.

In November 1924, as a member of the Communist International's Oriental Committee and a member of the Presidium of the Peasants' International, Nguyen Ai Quoc went to Guangzhou (China). In Guangzhou, Nguyen Ai Quoc worked in the Borodin advisory group of the Soviet Government next to the Government of Ton Dat Tien.

In 1925, Nguyen Ai Quoc founded the Vietnam Revolutionary Youth Association, directly opened a training course to train revolutionary cadres, and published the weekly newspaper "Youth", the first revolutionary newspaper in Vietnam to spread the principles of democracy. Marxism-Leninism to Vietnam, preparing for the establishment of the Communist Party of Vietnam. Nguyen Ai Quoc's lectures at the training classes were collected and printed into the book "Duong Khach Menh" - an important theoretical document that laid the ideological basis for the Vietnamese revolutionary line.

In May 1927, Nguyen Ai Quoc left Guangzhou for Moscow (Soviet Union), then to Berlin (Germany), to Brussels (Belgium), to attend the expanded session of the General Assembly of the Confederation of Anti-imperialist War, then go to Italy and from here to Asia.

From July 1928 to November 1929, Nguyen Ai Quoc was active in the overseas Vietnamese patriotic movement in Siam (Thailand), continuing to prepare for the birth of the Communist Party of Vietnam.

In October 1938, he left the Soviet Union for China and contacted the Party organization to prepare to return home.

On January 28, 1941, Nguyen Ai Quoc returned home after more than 30 years away from the country.

In May 1941, Nguyen Ai Quoc convened the Eighth Conference of the Central Committee of the Party, decided on the line of national salvation in the new period, established independent Vietnam (Viet Minh), and organized the construction of armed forces to liberate and build revolutionary bases.

In August 1942, taking the name Ho Chi Minh, the representative of the Viet Minh Front and the Vietnam Branch of the International Anti-Aggression Association went to China to seek international alliances and coordinate actions against development. on the battlefields of the Pacific. He was detained by Chiang Kai-shek's local government in the prisons of Guangxi province. During a year and 14 days in prison, he wrote a collection of poems called "Diary in Prison" with 133 poems in Chinese. In September 1943, Ho Chi Minh was freed.

In September 1944, Ho Chi Minh returned to Cao Bang base. In December 1944, Ho Chi Minh ordered the establishment of the Vietnam Liberation Army Propaganda Team, the forerunner of the Vietnam People's Army.

In May 1945, Ho Chi Minh left Cao Bang for Tan Trao (Tuyen Quang). Here, at the request of Ho Chi Minh, the National Conference of the Party and the National Congress held a meeting to decide on the General Uprising. The National Congress elected the Committee for National Liberation of Vietnam (ie the Provisional Government) chaired by Ho Chi Minh.

In August 1945, Ho Chi Minh and the Central Committee of the Party led the people to revolt to win the government. On September 2, 1945, at Ba Dinh Square (Hanoi), Ho Chi Minh read the "Declaration of Independence", declaring the establishment of the Democratic Republic of Vietnam and launching the provisional government led by Mr. President cum Minister of Foreign Affairs; organize free general elections throughout the country, elect the National Assembly and adopt the first democratic Constitution of Vietnam.

On January 1, 1946, a provisional coalition government was established with Ho Chi Minh as Chairman and Minister of Foreign Affairs.

In January 1946, the First National Assembly elected him as the President of the Democratic Republic of Vietnam.

On March 2, 1946, the Government of the United Resistance War was established with Ho Chi Minh as Chairman.

On November 3, 1946, President Ho Chi Minh was assigned the task of establishing a new Government by the National Assembly, led by him as President and Prime Minister (from November 1946 to September 1955) and concurrently Minister of Foreign Affairs. delivered (from November 1946 to 1947).

Together with the Party Central Committee, President Ho Chi Minh led the entire Party, army, and people of Vietnam to destroy the imperialist plots, and maintain and consolidate the revolutionary government.

On December 19, 1946, he called on the whole country to resist the French colonialists' invasion, defend the independence and freedom of the Fatherland, and protect and develop the achievements of the August Revolution.

At the Second Congress of the Party (1951), he was elected Chairman of the Central Committee of the Party. Under the leadership of the Party Central Committee, headed by President Ho Chi Minh, the Vietnamese people's resistance war against the French colonialists won a great victory, ending with the great victory of Dien Bien Phu. (May 7, 1954).

After the North was completely liberated (1955), the Party Central Committee and President Ho Chi Minh set out two strategic tasks of the Vietnamese revolution: carrying out the socialist revolution and building socialism in Vietnam. the North, and at the same time struggle to liberate the South, realize the reunification of the country, and complete the people's democratic national revolution in the whole country.

In October 1956, at the 10th Expanded Central Conference (second term), President Ho Chi Minh was elected as the Party's Chairman and General Secretary of the Party.

At the Third Party Congress (1960), President Ho Chi Minh was unanimously re-elected as Chairman of the Central Committee of the Vietnam Workers' Party.

The 2nd and 3rd National Assembly elected him as the President of the Democratic Republic of Vietnam.

In 1964, the US imperialists launched a war of sabotage by air to attack North Vietnam. He encouraged the entire Vietnamese people to overcome all difficulties and hardships, determined to defeat the American invaders. He asserted: “War can last 5 years, 10 years, 20 years or longer. Hanoi, Hai Phong, and some cities and factories may be destroyed, but the Vietnamese people are determined not to be afraid! There is nothing more precious than independence and freedom! On the day of victory, our people will rebuild our country more dignified, bigger, and more beautiful!".

President Ho Chi Minh died on September 2, 1969, in Hanoi.

Before his death, President Ho Chi Minh left the Vietnamese people a historic Will, instructing the Vietnamese Party and people to do to build the country after the war. The writer wrote: “My last wish is: The entire Party and people of our country unite to strive to build a peaceful, unified, independent, democratic and strong Vietnam, and make a worthy contribution. to the cause of world revolution”.

Implementing President Ho Chi Minh's Will, the whole Vietnamese people united to defeat the war of sabotage by the US imperialist B52 aircraft, forcing the US Government to sign the Paris Agreement on January 27. 1973, ending the war of aggression, withdrawing all US troops and vassals from South Vietnam.

In the spring of 1975, with the historic Ho Chi Minh Campaign, the Vietnamese people completed the cause of liberating the South, reunifying the Fatherland, and fulfilling President Ho Chi Minh's sacred wish.

President Ho Chi Minh creatively applied Marxism-Leninism to the specific conditions of Vietnam, setting out the right path to bring the Vietnamese revolution from one victory to another. Founder of the Marxist-Leninist Party in Vietnam, founder of the National United Front of Vietnam, founder of the Vietnamese people's armed forces, and founder of the Democratic Republic of Vietnam. strengthen international solidarity. He is a shining example of collective spirit, organizational sense, and revolutionary morality.

President Ho Chi Minh was a great teacher of the Vietnamese revolution, a beloved leader of the working class and of the whole Vietnamese nation, an outstanding soldier, and an outstanding activist of the communist movement. International and national liberation movement

From October 20 to November 20, 1987, during the 24th session of the United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization (UNESCO) passed Resolution No. 24C/18.6.5, taking 1990 on the occasion of the 100th birthday of President Ho Chi Minh, to honor President Ho Chi Minh as "Vietnam's hero of national liberation and outstanding cultural house", contributing to the common struggle. of peoples for peace, national independence, democracy, and social progress throughout the world.

Today, in the cause of national renewal and integration with the world, Ho Chi Minh's thought is a great spiritual asset to the Communist Party of Vietnam and the Vietnamese people, forever paving the way for the cause of construction. and protect the country of the Vietnamese people for the goal of rich people, a strong country, democracy, justice, and civilization./.

 

Tác giả: Quản trị viên

Nguồn tin: https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh/ho-chi-minh/tieu-su-cuoc-doi-va-su-nghiep/tieu-su-chu-tich-ho-chi-minh-52

Viết bình luận

Tin cùng chuyên mục

TRƯỜNG THCS LÝ TỰ TRỌNG - LY TU TRONG SECONDARY SCHOOL

SỐ 578 LÊ ĐỨC THỌ, PHƯỜNG 16, QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 578 LE DUC THO, 16 WARD, GO VAP DISTRICT, HỒ CHÍ MINH CITY

ĐIỆN THOẠI - PHONE: 028 38949756

Tập đoàn công nghệ Quảng Ích